"Đào, phở và piano" - thước phim về niềm tiếc nuối.
- Tân Thời

- 2 thg 3, 2024
- 10 phút đọc
Đã cập nhật: 27 thg 5
02.03.2024.
Hôm qua tôi đi xem phim "Đào, phở và piano", xem về cứ bứt rứt, thế là quyết định viết một bài cảm nghĩ, “phê phim” đu theo xu hướng. Thật ra ban đầu tôi không kỳ vọng quá nhiều vào phim, đi xem vì muốn trải nghiệm cảm giác được hòa cùng với đại chúng, vì lần gần cuối tôi xem phim Việt tại rạp (2018, xem Song Lang) thì cả rạp chỉ lác đác vài ba người, xem về buồn nẫu vì một bộ phim Việt hay như vậy mà chẳng được ai ngó ngàng. Nên lúc xem "Đào, phở và piano", cái đánh mạnh vào cảm xúc của tôi nhất là cảm giác đại đồng khi mình thấy các bạn trẻ như mình kéo nhau lấp kín rạp.
Thế mà xem xong tôi nhận ra, phim có nhiều thứ hơn là "hiệu ứng đám đông" mà người ta chê trách.
Tổng quan trước hết thì "Đào, phở và piano" là một bộ phim khá bất ổn.
Nó bất ổn ở chỗ đoạn nào hay thì rất hay mà dở thì rất dở làm trải nghiệm xem của tôi cũng bất ổn theo. Có rất nhiều đoạn tôi cực kỳ tâm đắc nhưng cũng có nhiều đoạn tôi chờ ê chê cực mạnh. Nên dưới đây là một bài phân tích ngắn gọn (nhưng với mấy bạn lười đọc thì siêu dài) những điểm hay và dở trong trải nghiệm xem của bản thân tôi về bộ phim này.
Đầu tiên,
Thứ đánh mạnh vào cảm quan của tôi chính là sự "nuối tiếc". Cả ba biểu tượng ở tên phim là đào, phở và piano đều là chuỗi hoài niệm và dang dở của toàn bộ nhân vật. Cô tiểu thư về lấy đàn thì cây đàn bị phá hủy, anh chiến sĩ muốn mang đào về chi đoàn đón Tết, về tới nơi mọi người đã nhận lệnh tập hợp và rời đi. Chú bé đánh giày mơ ước về một tô phở xa xỉ, nhưng rốt cuộc cũng chẳng thể thưởng thức. Tất cả bọn họ đều vuột mất những cái họ ao ước, bị phá hủy những thứ từng là kỷ niệm sâu sắc của họ. Cách sắp xếp bố cục tạo ra những rung cảm và dư âm nuối tiếc man mác khi chứng kiến một câu chuyện "không trọn vẹn".
Chi tiết hơn, tôi có thể thấy rằng mọi thứ trong phim đều được biểu tượng hóa. Bản "Liebesträume" của Franz Liszt có nghĩa là "Cơn mơ tình yêu", gọn ghẽ thể hiện ước ao một tình yêu trọn vẹn của cô tiểu thư. Bản đàn dứt và quá trình vận chuyển đàn gặp sự cố nên chiếc đàn rơi xuống, vỡ tan tành - một tín hiệu báo trước (foreshadow) cho việc mộng tưởng về tình yêu của cô sẽ vỡ vụn. Cô lấy cớ về chốn cũ tìm đàn vốn là để gặp tình yêu đời mình - anh công tử nhập ngũ thành chiến sĩ trước thời khắc cuối cùng. Cô tiểu thư từng học trường Dòng, lòng đầy ắp sự thơ ngây lãng mạn mà cái rõ rệt nhất được biểu thị bằng tình yêu nồng cháy đến bất chấp của cô. Lúc mới xem tôi cho rằng nhân vật này được khắc họa nông cạn, tuy nhiên về ngẫm lại, tôi nhận ra tâm hồn lãng mạn không hề ăn khớp với bối cảnh thời đại của cô thực ra lại biểu thị cho ao ước của hàng triệu con người thời đó.
"Làm sao sống được mà không yêu/Không nhớ, không thương một kẻ nào?" - Xuân Diệu.
Cuộc xung đột về tình yêu, sống và chết của cô tiểu thư trong phim cũng là xung đột của rất nhiều người thời ấy, khi họ chẳng thể có được một tình yêu trọn vẹn giữa bom đạn. Đó là tiếc nuối về tình yêu, cũng là sự đẹp đẽ của tình yêu khi mà ở cuối phim giọng cô tiểu thư lần nữa vang lên "ngay cả cái chết cũng không thể chia lìa đôi ta."
Khác với cô tiểu thư, anh chiến sĩ lại đại diện cho một biểu tượng phổ biến hơn. Thời đi học chúng ta đều nghe đến thuộc những áng văn thơ cổ động về những người chiến sĩ nên có một vài thứ về anh, những thứ giáo điều mà tôi nghĩ mọi người đều hiểu. Song bên cạnh đó, việc xây dựng nhân vật vẫn có những điểm "lệch chuẩn" nhất định so với biểu tượng chiến sĩ thông thường. Có một chi tiết ở đầu phim khi mà anh ta để phí phạm một quả lựu đạn và một chiến sĩ khác mắng anh hèn, từ đó tạo ra xung đột cho nhân vật này. Anh bắt đầu hành trình tìm đạn dược cho đoàn và tha thiết muốn chứng tỏ rằng bản thân không hèn nhát. Kết cục anh chỉ lấy được một viên đạn khác bù lại phần anh đã lỡ phí phạm. Và bởi anh quay lại lấy cành đào nên đã không kịp trở về và tập hợp cùng cả đội, các đồng đội khác cũng mặc định rằng anh đã "đào ngũ".
Đào ngũ là một chủ đề từng khá nhạy cảm trong văn học Việt từ 54 - 86 vì nhiều định kiến khác nhau, mọi người trước kia thường tránh né khi nhắc đến những mặt yếu đuối, không hào hùng của chiến tranh. Đương nhiên, anh chiến sĩ trong phim không hề đào ngũ, nhưng đồng đội của anh không ai biết rằng anh đã ở lại chiến lũy và chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, nên trong tâm tưởng họ, anh vẫn là một kẻ đào ngũ cho đến khi họ nghe tin anh chết (nếu họ tìm thấy xác anh, còn nếu không thì đó sẽ luôn là một hiểu lầm tiếc nuối). Cảnh cuối cùng khi anh chiến sĩ không thể lao ra giết địch như ý định của anh, diễn xuất của diễn viên thực sự khiến tôi rùng mình. Tôi cho rằng, đó là chi tiết gây nuối tiếc và cũng đẹp đẽ nhất trong bộ phim đầy rẫy những tiếc nuối này.
Điểm sáng ở phim này là đạo diễn dám khai thác những khía cạnh tương đối trái chiều trong một bộ phim lịch sử, khi đặt nặng nhiều khía cạnh lãng mạn và làm phim về những giai cấp "không trọng yếu". Từng có một thời điểm văn học lãng mạn Việt Nam bị coi là một thứ ung nhọt của tiểu tư sản và một bộ phận trí thức. Nghệ thuật càng là vậy. Những nhân vật trong phim đều là những nhân vật "bị lịch sử bỏ quên", những cô tiểu thư, những chàng công tử, những họa sĩ, những ả đào, những chú bé đánh giày cho Tây, những người bán phở, những vị Cha xứ... Không ai ngợi ca họ. Không ai thấy họ đáng ca ngợi.
Rồi tôi nghĩ, có thể bộ phim này sẽ thay đổi góc nhìn của ai đó khi nhìn về lịch sử, nhìn đến tất cả sự hy sinh của những người từng bị quên lãng, nhìn đến cả những điều nhỏ nhặt đã góp công vào một thời kỳ hào hùng.
Mọi nhân vật trong phim đều mang một biểu tượng và dấu ấn riêng, nhưng có hai nhân vật khá gây ấn tượng với tôi là ông họa sĩ và anh công tử nhà giàu. Phần đầu phim tôi để ý ngay đến chi tiết anh công tử kia nhìn lên bức tranh “Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân” của Eugène Delacroix, nhắc đến cuộc Cách mạng tháng Bảy hay còn gọi là “Ba ngày vinh quang” (Trois Glorieuses) của Pháp. Cuộc cách mạng đó cũng khai sinh ra khẩu hiệu “Liberté, égalité, fraternité” nghĩa là “tự do - bình đẳng - bác ái” - cũng là nguồn cảm hứng cho chữ “tự do” trong “độc lập - tự do - hạnh phúc” trong tiêu ngữ của nước ta. Một đất nước khởi nguồn của tự do lại kiềm hãm đất nước khác khỏi tự do, anh công tử treo bức tranh đó trong nhà, gần như là một sự châm biếm đối với quân Pháp trong hoàn cảnh đó.
Một điều đáng nói nữa là chi tiết về hai ả đào trong nhà anh công tử. Hát ả đào (ca trù) thời điểm đó bị coi là một thú vui hủ bại của phong kiến, và anh công tử kia cũng là một biểu tượng của sự “ăn chơi trác táng” theo trào lưu lãng mạn Pháp ở Hà Nội lúc bấy giờ. Anh ta đề cập rất nhiều đến chủ nghĩa lãng mạn và hiệp sĩ (cũng là sản phẩm của văn học lãng mạn Pháp luôn), và cũng coi cuộc rượt đuổi với lính pháp là một cuộc phiêu lưu hào hiệp.
Cá nhân tôi rất khen đoạn rượt đuổi đó, sự “phóng đại” được thể hiện trọn vẹn và cảnh mấy cô đào “oui” rất đáng yêu. Phải nói là tôi thích phân cảnh đó nhất! Về nhà tôi đã tra cứu lại và xác nhận bài nhạc được lồng ghép trong phim là điệu ca trù “Chí làm trai” (thơ Nguyễn Công Trứ), cách lồng ghép rất tài tình và làm nổi bật lên sự phúng dụ trong nhân vật công tử nhà giàu kia. Sự đa chiều trong việc xây dựng nhân vật ở phim này được thể hiện khá tốt khi mà các nhân vật bị lịch sử xa lánh được tái hiện với tinh thần vô cùng cởi mở của đương thời. Đây thực sự là một tín hiệu tốt trong một bộ phim lịch sử, khi mọi thứ không còn chỉ là trắng và đen nữa.
Về ông họa sĩ, tôi cảm thấy ai cũng sẽ thích nhân vật ông họa sĩ trong phim. Một nhân vật thực sự nổi bật từ những miếng hài đến cách biểu lộ nghệ thuật. Ông ấy biểu tượng cho giới nghệ sĩ Việt Nam lúc bấy giờ, chênh vênh giữa “việc vẽ cờ” (nghệ thuật cổ động) và bản sắc của một người nghệ sĩ. “Tồn tại hay không tồn tại” (To be or not to be) là một câu trong vở Hamlet của Shakespeare mà sau này trở thành một luồng tư tưởng triết học. Nó không chỉ là sự nghi ngờ về mục đích sống hay là trăn trở về những điều mình đang làm liệu rằng “đúng” hay “sai” mà nó là cách nhìn nhận của ông về nghệ thuật cũng như chính mình. Nghệ thuật không có trắng đen và con người không hoàn toàn tốt, cũng chẳng hoàn toàn xấu. Chà, nếu bình tiếp thì sẽ lái sang cả “nghệ thuật vị nghệ thuật” và “nghệ thuật vị nhân sinh” rồi nên tôi sẽ không lạm bàn.
Khen nữa là miếng hài trong phim rất hề, rất duyên, kiểu duyên một cách khá đương thời”. Tôi cười bò đoạn anh chiến sĩ bảo ông chỉ huy “còn đạn éo đâu mà đòi bắn” (hay đại loại vậy). Cái chất tự trào, châm biếm trong phim rất thú vị.
Còn rất nhiều chi tiết đáng nói khác như chú bé đánh giày cho Tây, ông bà hàng phở, cha xứ,... mà nếu kể ra thì có thể viết hẳn thành bài luận phê phim 10 trang A4, nhưng tôi lười, thế nên dưới đây tôi muốn nói về những điểm tôi chưa ưng ý trong trải nghiệm xem phim - mà hình như ai cũng nói rồi.
Cái khúc mắc nhất là tôi không hiểu nổi dụng ý của việc chuyển cảnh. Nếu đạo diễn muốn làm một bộ phim mà dòng thời gian phi tuyến tính thì chuyển cảnh trong đây không đáp ứng được vì nó chẳng hề bổ sung cho nhau; mà muốn cắt cảnh dựa trên suy nghĩ của nhân vật thì còn dở nữa. Nói chung là cắt ghép phân cảnh rất lộn xộn, dù vẫn có những phân cảnh được lồng ghép tốt và hợp lý, nhưng tổng thể thì nó vẫn hạ thấp trải nghiệm rất nhiều.
Thật sự là quả phim này kịch bản 8/10 thì ngôn ngữ điện ảnh 2/10, ghép lại vừa tròn 10 điểm (trên tổng điểm 20). Phim giống như một học sinh giỏi lý thuyết nhưng kém thực hành, bao nhiêu cái tinh túy trong câu chuyện đều trở nên rất phô phang khi dựng thành phim. Nếu khéo léo hơn về ngôn ngữ điện ảnh thì bộ phim này thực sự có thể trở thành một tác phẩm điện ảnh xuất chúng. Có những câu thoại mà nếu đặt trong văn chương thì tôi sẽ cực kỳ mê mẩn, nhưng đặt vào phim thì tôi lại "khúm núm" vì nó quá nhiều tính kể và cực kỳ "văn mẫu".
Tiếp theo, phim còn tồn đọng quá nhiều lỗ hổng không được giải thích (mà lỗi cũng từ chuyển cảnh mà ra). Ví dụ cảnh trước đang là anh công tử ngồi nghe mấy cô đào hát ca trù (bài ở cảnh đó là “Đời đáng chán”), xong cảnh nhau nhảy sang vụ anh ta với mấy cô kia tìm thấy thi thể thằng bé đánh giày. Nhảy cảnh chấm hỏi thực sự? Không có một dấu vết nào kết nối hai phân cảnh với nhau ấy, nó là một lỗ hổng đến từ việc ẩu tả trong cắt ghép cảnh chỉ để thuận tiện cho việc làm phim.
Thích cái cách nhà làm phim mặc định toàn dân đều biết tiếng Pháp =))))) đùa chứ tôi từng xem kha khá phim Việt và có rất nhiều phim chiếu rạp không hề thêm phụ đề như kiểu họ mặc định độc giả hiểu tiếng Pháp (hồi xem Người bất tử của Victor Vũ mình cũng chấm hỏi tương tự)? Lính Tây trong phim xuất hiện khá nhạt nhẽo nhưng thôi, tôi hiểu phim đang tập trung vào cái gì nên không bàn đến sự hời hợt trong việc xây dựng phe “phản diện”.
Tiếp nữa là trình độ diễn xuất với nhả chữ chênh lệch, thoại nhiều chỗ sến với vụng, xem mà gai hết cả người. Tâm trạng tôi lúc xem phim không khác gì biểu đồ hình sin, lên lên xuống xuống, đang xuýt xoa: “Úi chà đoạn này ngon nghẻ thế”, xong nhảy cảnh cái lại xuống đáy liền. Diễn viên đóng vai cô tiểu thư đọc thoại làm tôi nhớ đến mấy phát thanh viên ở đài tiếng nói với mở đầu ám ảnh: “Đây là đài tiếng nói Việt Nam, phát thanh từ Hà Nội, thủ đô của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”. Tạm không bàn về thoại đi, cách thể hiện của diễn viên vẫn tệ. Bù lại vai anh chiến sĩ với ông họa sĩ thì nổi bật luôn, gánh tới bến.
Phim làm tốt về mặt câu chuyện nhưng ngôn ngữ điện ảnh thì không. Kiểu tôi hiểu được cái lý thuyết đạo diễn muốn nói gì nhưng tôi không thấy nó trên màn ảnh. Đây là vấn đề của kỹ thuật và tư duy quay phim chứ không hẳn bởi vì kinh phí, bởi xét trong phạm vi kinh phí thì phim làm quá tốt luôn.
Bình luận