[nơi xanh xao hoang dại.] Phần hai, "Xẻ nửa", III.
- Tân Thời

- 3 thg 5
- 13 phút đọc
III.
Lên cấp ba, anh ở ký túc xá trên trường, chỉ về nhà cuối tuần. Đó cũng là thời gian biểu về nhà của cha tôi. Công ty ông ở trong thành phố, cả tuần bận rộn chỉ được nghỉ hơn một ngày. Trước kia, cứ đến cuối tuần là tôi lại háo hức sắm sửa thật đẹp đón ba về, song kể từ khi người anh trai nọ bước vào căn nhà, những giờ tôi được ở riêng cùng cha đã thành điều xa xỉ.
"Cảnh Hằng về rồi đấy à?"
Nghe tiếng cha, tôi rời mắt khỏi đĩa bít tết phía dưới, đánh mắt nhìn anh mặc đồng phục cấp ba. Đã mấy quý đặt chân vào căn nhà này, anh vẫn chẳng thể rũ bỏ sự tầm thường của mình. Có lẽ nó đã bám vào xương tủy, bám vào cuộc sống mười bốn năm trước của anh, thành thử đến giờ anh vẫn chênh vênh giữa lằn ranh của thân phận kẻ hầu và cậu ấm. Anh tự làm mọi việc, thế là người giúp việc trong nhà lại thành ra dư thừa.
"Con chào ba, chào em."
Anh nói mà không nhìn tôi, chỉ xách cặp đến ngồi xuống chiếc ghế cạnh tôi. Tôi nhíu mày, cảm giác bàn ăn bỗng chốc bẩn thỉu hẳn.
Cha không để ý đến sắc mặt tôi, thản nhiên múc một bát súp bí đỏ cho anh, hỏi, "Ở trường mới ổn chứ?"
"Ổn ạ." Anh đáp, rồi như lại thấy hơi ngắn gọn quá, anh nói thêm, "Ký túc xá rất đẹp, bạn cùng phòng cũng hòa đồng với con."
"Ừ, hôm trước cô chủ nhiệm con cũng gọi cho ba, cô khen con lắm, điểm đầu vào rất cao, kiểm tra bài cũng tốt. Ba rất bất ngờ, cũng rất vui."
Hiếm khi cha bày tỏ sự vui mừng thành lời, tôi bất giác cúi đầu sâu hơn. Thực ra trước kia tôi cũng từng đi học, thế nhưng luôn bị bạn bè trêu chọc vì làn da trắng bệch như ma cà rồng và mái tóc trắng như quỷ Dạ Xoa (tụi nó bảo thế). Ban đầu chỉ là những phiền phức nhỏ, sau hóa thành phiền phức to. Có lần tôi bị bạn kéo ra nắng, trở về phồng rộp cả người, ba bèn thảo luận với giáo viên rồi cho tôi nghỉ học, ở nhà thuê gia sư để tôi học tại gia. Sau, thấy tôi vượt trội hẳn ở mảng hội họa mỹ thuật, có gia sư đã đề nghị cha bồi dưỡng tôi từ sớm, các môn văn hóa chỉ học cùng để bổ sung kiến thức. Thế là, từ cấp hai, tranh của tôi đã thường gửi đi tham gia các cuộc thi trong và ngoài nước, có lần được giải có lần không, phòng cũng có mấy cái cúp. Tiếc rằng ba tôi lại không có khiếu cảm thụ nghệ thuật, mỗi lần chỉ khen tôi qua loa. Trong mắt cha, có một đứa con có thể đi học, trên trường lại đạt thành tích cao vẫn hãnh diện hơn một đứa con chỉ biết chui rúc xó nhà, người ngợm lúc nào cũng dính đầy màu vẽ.
Dường như anh không biết đáp gì với sự ngợi khen của cha, chỉ im lặng ăn súp bí đỏ. Tôi nhìn đĩa thịt bò, tự dưng chẳng muốn ăn nữa.
Ba thấy thế bèn hỏi tôi, "Tố Trân sao thế con?"
Tôi lắc đầu, tỏ ý không sao rồi lấy dao dĩa tiếp tục cắt thịt bò. Ăn thêm một miếng thịt chẳng có vị gì, tôi chợt nghĩ ra một trò đùa tai quái, bèn nhìn về phía anh.
"Bít tết hôm nay ngon lắm anh. Anh thử một chút đi."
Anh đã dùng xong khai vị súp bí đỏ. Tôi chưa để anh kịp tỏ ý thì đã gọi người mang thêm một phần bít tết và sốt cho anh. Bít tết nóng hôi hổi, ngửi thôi đã cồn cào. Anh cầm dao với dĩa lên, bối rối cắt thịt. Trông động tác vụng về của anh, tôi thấy cơn khó chịu trong lòng vơi đi bao nhiêu.
"Anh, không phải như thế." Tôi cố ý phóng đại sự vụng về của anh, lại chẳng có ý muốn giúp anh, "Anh dùng lực bả vai nhiều quá, tướng ăn trông xấu chết!"
"Tố Trân." Cha không hài lòng với cách nói năng của tôi, "Không được nói thế với anh con."
Tôi bĩu môi, "Con chỉ nói sự thật thôi mà."
"Không được, con phải giữ lễ nghĩa với anh con."
Bị cha nghiêm khắc dạy dỗ, tôi hờn dỗi im lặng. Nếu như trước kia, cha sẽ lập tức dỗ dành con gái rượu của ba, song nay ba chỉ nhìn tôi với ánh mắt không hài lòng. Tôi đoán là do có người thứ ba xuất hiện trong căn nhà này.
Từ khi Cảnh Hằng đặt chân vào thềm gác, mọi thứ thuộc về tôi đều bị xẻ nửa chia anh. Trước kia, mỗi lần về nhà cha đều mang quà cho tôi thì bây giờ, nửa chỗ quà đó thuộc về anh. Đôi khi, tôi mở cửa phòng, thấy có món đồ được đặt trước cửa, tôi sẽ mang nó vào và lấy bất cứ thứ gì trong tầm tay đập nát nó. Những thứ đã không thuộc về tôi, anh có cho tôi cũng chẳng thèm lấy. Trong mắt tôi, kể từ thời khắc ba đưa những món quà đó cho anh, chúng cũng thành rác rưởi.
Bầu không khí trầm hẳn theo sự im lặng của cha con tôi. Anh bối rối đặt dao và đĩa xuống, không biết nên mở lời ra sao. Tôi cảm giác ánh mắt cha hướng về phía anh. Sau đó, cha đứng dậy.
"Nào, Cảnh Hằng," Cha vòng qua chỗ chúng tôi, dừng lại phía sau ghế anh, "để ba dạy con."
Tôi kinh ngạc nhìn cha cúi mình. Đôi tay vững vàng của cha đặt lên đôi tay còn lóng ngóng của anh, kiên nhẫn dạy anh cách cầm dao và dĩa. Gương mặt cha kề sát tai anh, ân cần chỉ dẫn.
"Lực tay cầm dao nên nhẹ hơn. Thả lỏng, đừng gồng vai lên," Cha vừa hướng dẫn anh vừa thành thạo dao ngang qua miếng thịt bò mà trước đó anh lúi húi mãi không xong. "Đấy con thấy chưa, không khó chút nào, chỉ cần luyện tập thêm vài lần nữa là con sẽ làm nó dễ dàng thôi."
Lời cha nói luôn mang theo sức hút khiến bất cứ ai cũng phải kính phục. Liếc sang, tôi thấy đôi tai anh đỏ lựng lên khi nghe cha thì thầm. Giọng cha hay như rót mật vào tai, nhưng lời cha nói không còn hướng về một mình tôi nữa. Tôi thầm siết tay dưới váy, cau mày ăn sạch đĩa bít tết ghê tởm kia. Cảnh Hằng dùng sự tầm thường của anh làm vũ khí, lần lượt xâm nhập vào từng ngóc ngách cuộc sống cha con tôi. Anh càng vụng về, cha lại càng ân cần bảo ban, dạy dỗ. Đến cả tình thương dành cho tôi cũng bị cha xẻ nửa đưa anh. Anh nuốt thứ tình thương ấy để trưởng thành.
Xuân qua thu lại, hè tới đông về. Thấm thoắt đã mấy mùa thay lá. Cảnh Hằng thường xuyên ra ngoài cùng cha, còn tôi vẫn như cũ, ở nhà làm bạn với giấy xuyến và mực Tàu. Mỗi lần nhác thấy bóng xe của cha từ cửa sổ lầu gác, tôi đều cẩn thận vén tấm mành che lên. Ánh nắng chiếu vào da, chỉ một hồi đứng nắng cũng đủ làm làn da bệch bạc của tôi ửng lên vết đỏ au ngứa ngáy. Tôi kéo cao tay áo dài, che phần da ửng đỏ ấy đi, hé mắt nhìn cha và anh bước ra khỏi con xe kia.
Anh lại cao lên nữa, giờ đã cao đến chân mày của cha. Trong bộ lễ phục thẳng thớm và tóc tai chỉn chu, anh như lột xác thành một con người khác, nghiêm chỉnh và đĩnh đạc hệt như phiên bản thu nhỏ của cha. Trời xuân nắng ấm, phơi phới huân phong, anh bước tới giúp cha cởi áo khoác ngoài, vừa cởi vừa thì thầm điều gì vào tai cha. Tôi căng mắt lên vẫn chẳng thấy rõ gì cả. Hình như cha đã mỉm cười. Hình như đôi mắt lạnh lùng của anh hơi mềm đi. Hình như, khung cảnh hòa hợp ấy ngăn cách hai người họ trong một thế giới biệt lập, chẳng ai xen vào được.
Tôi siết lấy tấm rèm lụa là, vò nó nhăn nheo. Màu xanh hoang dại của những tán cây trong sân tràn vào đáy mắt, đâm chồi qua động mạch, cắm rễ xuống con tim thoi thóp của tôi. Cả trái tim tôi hóa thành sắc xanh đắng nghét. Tôi muốn nôn thứ màu xanh lở loét ấy ra để mỗi lần cha và anh trở về, tôi lại có thể mỉm cười chạy xuống, nhào vào lòng cha như xưa. Nhưng xưa đã xa lắm rồi. Chẳng gì của thuở miên viễn kia còn lại nữa. Trong thế giới rộng lớn của cha đã hiện hữu một người đồng hành khác - người có thể cùng cha bước dưới ánh trời chói lọi và giúp cha che mưa chắn gió. Theo thời gian, đứa con lầm lũi không thể tiếp xúc với mặt trời sẽ dần nhạt phai trong tâm tưởng cha và trở thành một con búp bê vứt xó nhà. Phần nho nhỏ của tôi trong cuộc sống bộn bề của cha rồi sẽ bị những kỷ niệm về anh thay thế.
Dần dà, anh sẽ chiếm hết những gì vốn dĩ thuộc về tôi.
"Sao thế?"
Tôi ngẩng lên, đối diện với ánh mắt khoan hòa của cha.
"Nay con ăn ít quá." Cha điềm đạm hỏi, "Không có khẩu vị gì à?"
Tôi nhìn miếng bò bít tết được cắt ở độ chín vừa phải. Chất lỏng đỏ mọng chảy ra từ giữa miếng thịt, đỏ đến mức tôi thấy gai mắt. Tôi đặt dao dĩa xuống, cố nặn một nụ cười mỉm mà tôi cho là đẹp nhất.
"Con no rồi."
"Đừng lãng phí đồ ăn." Cha ân cần nhắc nhở. Tôi chỉ cúi đầu, thinh lặng.
Cha nhìn tôi, trong chốc lát cũng chẳng nói gì thêm. Thấy bầu không khí trở nên căng thẳng, anh bèn lên tiếng.
"Em no rồi thì thôi, phần này để con ăn nốt cho."
Đoạn, anh vươn tay, lấy đĩa bít tết dang dở của tôi rồi đổi cho tôi một đĩa rau củ thanh mát. Có táo, lê, cà chua, đu đủ xanh, xà lách đều được thái nhỏ và trộn bằng sốt dầu mè thơm phức. Tôi có thể tưởng tượng ra vị ngọt thanh của miếng táo, vị mát lạnh của lê và vị chua dịu nhẹ của miếng cà chua mọng nước. Mọi thứ mùi vị đều quá đỗi sinh động trong tâm trí tôi, song dù thế, tôi vẫn chẳng thể gọi dậy cơn thèm. Tôi cứ nhìn chằm chằm vào đĩa rau củ đủ màu sắc kia, chẳng hề động đậy.
"Con đừng chiều nó quá." Thanh âm trầm lắng của cha vang lên phía đối diện, nghe rõ sự phật lòng, "Con bé sắp thành niên rồi mà vẫn khó chiều như một đứa trẻ. Cứ giữ nó như đồ sứ mãi thì làm sao mà lớn được?"
Anh chỉ cười nhẹ với cha và rồi vẫn lấy đĩa về phía mình. Tôi liếc anh. Anh ngồi thẳng lưng, dù tay có thoăn thoắt di chuyển thì hai bên vai anh luôn cố định. Những ngón tay thon dài và cứng cỏi kia bao quanh chiếc dĩa bạc, thoạt trông thích mắt vô cùng. Chẳng biết từ bao giờ, thiếu niên từng vụng về, luộm thuộm, chẳng cắt nổi miếng thịt đã tôi luyện được quy cách ăn uống thanh tao như thế. Anh cắm bít tết, bỏ vào miệng, ung dung nhai miếng thịt bò đã nguội ngắt. Tôi đoán anh có thể nhai mọi thứ, nhai cả những gì tôi không thể nhai và nuốt trọn mọi thứ tôi bỏ đi, thừa mứa. Tôi chắc mẩm dù mình có nôn hết đám thịt bò trong bụng ra thì anh vẫn ăn được bằng sạch. Phải có cơ hàm khỏe và một cái bụng tốt như anh thì mới có thể tiêu hóa hết ngần ấy dinh dưỡng. Hoặc chăng, mười mấy năm trước kia cuộc sống của anh quá đói khát còn tôi lại quá dư thừa, thế là bây giờ tôi phải lẳng lặng nhìn anh ăn hết phần dư mà đáng lẽ tôi đã tùy tiện vứt đi nếu muốn.
Dần dần, anh nuốt hết mọi thứ thuộc về tôi. Thậm chí, anh còn nuốt được cả phần mà tôi chẳng đời nào nuốt nổi. Thứ nghịch lý nực cười ấy làm tôi nhớ lại lần đầu gặp anh. Tôi ghim sâu ánh mắt anh khi ấy nhưng đến tận lúc này mới hiểu trọn. Cồn cào. Cái sự cồn cào sắc bén như gươm đao đó, anh dùng nó làm thứ vũ khí lợi hại nhất của mình trong khi tôi chết mòn trong ái êm của màn nhung trướng gấm.
Tôi phải ngăn sắc xanh hoang dại kia không trào ra khỏi hốc mắt mình, đứng lên, bỏ đi trong ánh nhìn bất lực và muộn phiền của cha. Bước ra khỏi phòng ăn, tôi còn loáng thoáng nghe tiếng cha thở dài.
"Sao càng lớn con bé càng trái tính trái nết thế nhỉ?"
Cha sẽ chẳng bao giờ hiểu đâu, cha à. Chính cha đã để thứ tu hú chen vào tổ quạ và chiếm lấy vị trí của quạ con. Chính cha là người đã gạt con sang bên lề mà chọn lấy kẻ thậm chí còn chẳng chung dòng máu. Cha đã bỏ rơi kỷ niệm đẹp đẽ nhất của cha và mẹ rồi. Hay cha không còn thương mẹ nữa? Cha đã bẵng quên mẹ nên cũng chẳng còn thương đứa con máu mủ ruột già. Nghĩ đến đó mà tôi ớn lạnh. Tôi chạy lên phòng, lục lọi kiếm tìm di ảnh của mẹ trong chiếc rương đáy tủ. Tấm ảnh kia đã chụp mười tám năm, giờ trông cũ lắm rồi, song dung nhan ngọc ngà của mẹ vẫn được thời gian bảo lưu. Tôi nhìn vào di ảnh mà như đang soi gương. Trông tôi giống mẹ thế kia, vậy mà từ bao giờ cha đã chẳng buồn kiếm tìm hình bóng mẹ ở tôi nữa.
Tôi không chịu nổi. Tôi phải nhắc nhở cha để cha không quên dáng hình của mẹ. Thế là ngay hôm đó, tôi sang phòng cha, đặt tấm ảnh kia lên kệ tủ, ngay vị trí dễ thấy nhất rồi lén lút theo dõi cha. Cha bước vào phòng, cởi áo khoác và tháo lỏng cà vạt, vắt lên thành ghế ngay cần chỗ tủ. Sau đó, phát hiện có vật lạ trong phòng, cha cầm tấm di ảnh lên, trầm mặc. Tôi hồi hộp quan sát cha mang theo tấm ảnh, ngồi xuống cuối giường. Lấy một điếu thuốc, cha châm lửa, vừa hút vừa lặng lẽ nhìn tấm ảnh. Ngón tay cha miết qua tấm kính phẳng phiu, lẩm bẩm điều gì tôi không nghe rõ. Trông biểu cảm ấy, lòng tôi nhẹ nhõm hơn đôi phần.
Cha còn nhớ mẹ. Rõ ràng, cha còn nhớ mẹ. Cha nhớ mẹ nên sẽ không quên đứa con này đâu. Tôi ôm ý nghĩ kia về phòng, bình tâm ngồi vẽ tranh. Mỗi khi vẽ, thời gian lại trôi qua nhanh biết bao nhiêu. Khi tôi vẽ xong bức tranh, trời cũng tối mịt. Ban chiều tôi chẳng ăn được bao nhiêu, giờ lại thấy đói. Tôi bèn đặt bức tranh ở đó, định bụng xuống bếp tìm đồ ăn.
Ngang qua phòng cha, tôi bỗng thấy một tia sáng nhỏ hắt hiu rọi vào khe hẹp. Cửa phòng cha để hé, không bật đèn. Tiếng sột soạt đánh động lòng hiếu kỳ của tôi. Tôi kiễng chân, rón rén đến gần cánh cửa, thoáng sau nghe thanh âm không gần không xa, chẳng quen cũng chẳng lạ vọng đến.
"Ba... đang ở nhà... đừng, ba."
Giọng nói kiềm chế của anh quanh quẩn trong gian phòng. Lông tơ tôi dựng đứng, huyệt thái dương căng lên. Tôi có dự cảm rằng mình không nên trông thấy cảnh tượng kế tiếp, song đôi mắt táo tợn của tôi vẫn phóng qua khe hẹp, lén nhìn bên trong.
Ánh đèn ngoài hiên tờ mờ hắt lên gương mặt hai người đứng cuối giường. Một tay cha đỡ lấy eo anh, tay còn lại cha vuốt nhẹ tóc mái hơi dài của anh sang một bên rồi dịch xuống, nhẹ nhàng lướt mu bàn tay qua gương mặt căng thẳng của anh.
"Ba..." Anh lại gọi. Giọng anh run rẩy đến mức tôi ngộp thở thay. Chất giọng lai tạp giữa trong trẻo của con trai giữa độ tuổi thiếu niên và trầm lắng của người thành niên thực sự quá chí mạng. Tôi vô thức muốn đánh động, muốn cất tiếng, muốn làm gì đó trước khi có thứ xé toạc mặt đất mà trổ thẳng lên trời, song tôi cứ trơ mắt đứng đó, nhìn cha mơn trớn gương mặt anh và cúi mình hôn lên môi anh. Anh siết lấy tay áo sơ mi của cha, giống như khi còn là cậu thiếu niên vụng về, anh phó mặc mọi thứ cho cha dẫn dắt.
"Cảnh Hằng..." Cha gọi anh, giọng khàn khàn. "Lại quên những gì ba dạy rồi."
Cách nói chuyện của cha như thể họ đã làm điều này nhiều lần. Cha giữ gáy anh, đẩy sâu hơn nụ hôn trong bóng tối. Tiếng thở lộn xộn trườn đến tai tôi, tôi thấy mắt mình hoa lên, khắp nơi đều là màu xanh um của tán cây giữa hè nắng chói. Tôi ghét mùa hè, ghét ánh nắng và ghét cả màu xanh của sức sống tốt tươi. Sắc xanh kia khứa rách làn da bệnh tạng của tôi, len lỏi vào những vết cắt chằng chịt và nhuộm cả hệ tuần hoàn của tôi thành màu đắng ngắt. Tôi ghì tay lên lồng ngực, nhìn cha ôm anh ngã xuống giường.
Và giữa cái khoảnh khắc hợm hĩnh, quái thai kia, đôi mắt sắc bén của anh đột nhiên phóng thẳng về tôi. Tôi hoảng hồn lùi lại, khiếp vía xoay người, chạy chân trần xuống cầu thang bằng gỗ. Băng qua hành lang mờ mờ tỏ tỏ, tôi lao đến căn phòng vẽ chuyên dụng, điên cuồng lôi đủ thứ màu Đông phương lẫn Tây dương, trét thẳng lên tấm vải lanh trước mặt. Mùi sơn vẽ dậy lên, dạ dày tôi nôn nao, quặn thắt. Tôi không rõ mình đã vẽ bức tranh kia ra sao rồi ngất đi trong cơn xây xẩm thế nào. Nhưng lúc tôi tỉnh dậy trong ánh nắng, ngẩn ngơ nhìn con sói đang ăn mất mặt trời trong tranh, tôi cảm giác bầu trời ngoài kia đã sụp đổ. Tận thế là cái giá của nhiễu nhương. Tình thương xẻ nửa của cha từ lâu đã bị anh hoàn toàn cướp mất.
Phẫn nộ cầm dao rạch nát bức tranh kia, tôi ném nó sang bên, cuống cuồng lục tìm trong mớ tranh không đem bán của mình một kỷ niệm, một sự xoa dịu cho tầm hồn đã bị mặt trời thiêu cháy. Rồi tôi tìm thấy một bức thủy mặc cũ, họa lại quang cảnh thủy đình và tài tử giai nhân đứng cạnh hàng bạch trà trang nhã. Nhìn chăm chú người con gái trong bức tranh kia, tôi bần thần buông tay.
Thanh nữ trong bức tranh kia không phải người mẹ đã khuất của tôi. Đó là tôi. Đó là viễn cảnh về một tôi trưởng thành sánh bước bên cha mà năm ấy tôi thuở thiếu thời đã vẽ ra. Đó là...
Ảo mộng hoang đường nhất của tôi.
Bấy lâu, tôi vẫn luôn mượn danh nghĩa mẹ để ở cạnh cha. Tôi vẫn luôn tự hào gương mặt có chín phần giống mẹ sẽ được cha ưu ái, rồi đến một ngày, rốt cuộc cha sẽ trông thấy kỷ niệm về mẹ qua tôi và chuyển dời sự tiếc nuối với mẹ sang tôi. Tôi những tưởng niềm yêu thành kính của tôi sẽ được cha hồi đáp. Nhưng Cảnh Hằng đã thẳng tay đập nát giấc mộng Trang Chu của tôi bằng sự tồn tại của anh. Anh cướp mất cha tôi - tức anh đã cướp đi mọi thứ.
Anh thẳng tay tước đoạt tình yêu của tôi, thứ tình yêu không thể vãn hồi.
Khoảnh khắc ấy, tôi đã muốn cầm con dao này, đâm thẳng vào tim anh.

![[nơi xanh xao hoang dại.] Phần hai, "Xẻ nửa", IV.](https://static.wixstatic.com/media/eb28e6_154dd1d729004ee9bd9ec8d7d81219f4~mv2.png/v1/fill/w_980,h_980,al_c,q_90,usm_0.66_1.00_0.01,enc_avif,quality_auto/eb28e6_154dd1d729004ee9bd9ec8d7d81219f4~mv2.png)
Bình luận